Nhân dịp Xuân về, tìm hiểu về các nhà giàn, nơi tiền tiêu của Tổ quốc ngoài biển khơi xa xôi
DK1 (cụm Dịch vụ kinh tế - Khoa học kỹ thuật) gồm cácnhà giàn nằm trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc, cách đất liền 250-350 hải lý. Nhiệm vụ của các nhà giàn

DK1 (cụm Dịch vụ kinh tế – Khoa học kỹ thuật) gồm cácnhà giàn nằm trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc, cách đất liền 250-350 hải lý. Nhiệm vụ của các nhà giàn là lập các đèn biển để thông báo cho tàu thuyền đánh cá và vận tải hàng hải đi lại trong vùng ; đặt trạm nghiên cứu khí tượng thủy văn ; làm nơi trú tránh bão và ứng cứu ngư dân ; chốt giữ, bảo vệ chủ quyền thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc, bảo vệ bình yên cho việc khai thác tài nguyên nơi thềm lục địa.
Hệ thống nhà giàn DK1 gồm bảy cụm là Phúc Nguyên, Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Tư Chính, Ba Kè và Cà Mau với tất cả 20 nhà giàn từng được xây dựng trên thềm lục địa. Chiều sâu mực nước bãi cạn thấp nhấp là 7m tại DK1/3 và sâu nhất là 25m tại DK1/15. Các nhà giàn được xây dựng từ năm 1989 đến 1998. Hiện tổng cộng có cả thảy 15 nhà giàn đang sử dụng, trong đó có 8 nhà giàn có bãi đỗ trực thăng trên nóc, 4 nhà giàn có hải đăng và 1 nhà giàn có trạm quan trắc khí tượng. Có 14 nhà giàn ở khu vực giáp với vùng biển quần đảo Trường Sa và một nhà giàn (DK1/10) ở bãi cạn Cà Mau trên vùng biển Tây Nam.
36 năm trước – ngày 5-7-1989, Tiểu đoàn DK1 được thành lập. Việc ra đời nhà giàn DK1 là một chủ trương có ý nghĩa cả về trước mắt lẫn lâu dài trong việc giữ vững toàn vẹn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Trước khi được thành lập chính thức, vào tháng 11-1988, những biên đội tàu hải quân đã lên đường làm nhiệm vụ khảo sát các bãi đá ngầm ở thềm lục địa phía Nam để đặt nhà giàn.

Giữa năm 1989, ba nhà giàn đầu tiên gồm : DK1/3 (Phúc Tần), DK1/4 (Ba Kè A) và DK1/1 (Tư Chính A) được dựng lên trên vùng biển chủ quyền ở thềm lục địa phía Nam Tổ quốc.
“Đây là lực lượng đầu tiên, những cột mốc chủ quyền bằng xương, bằng thịt, tiên phong ra chốt giữ trên thềm lục địa, nơi tiền tiêu của Tổ quốc”, thượng tá Phạm Ngọc Quý – chủ nhiệm chính trị Vùng 2 Hải quân – ôn lại.
Trong công cuộc giữ chủ quyền, đã có năm nhà giàn đã bị gãy đổ do bão tố, chín cán bộ, chiến sĩ DK1 và bảy cán bộ trên các tàu trực hy sinh.
Xây dựng nhà giàn đầu tiên DK1/1

“Yêu cầu của Bộ Quốc phòng là phải bí mật, nhanh gọn. Muốn vậy thì toàn bộ phần thượng tầng – block nhà ở đều phải thi công trong bờ. Ra biển phải xây dựng thật nhanh” – PGS.TS Nguyễn Trọng Nhưng, hiện là trưởng ban quản lý dự án khoa học và công nghệ (Công ty Chế tạo giàn khoan dầu khí), nhớ lại.
Đi xuyên sóng gió, làm ngày làm đêm
36 năm trước, ông Nhưng là phó cục trưởng Cục Xây lắp dầu khí của Vietsovpetro. “Lúc đầu chúng tôi định làm từ tháng 2-1989 để kịp tưởng niệm một năm ngày hy sinh của 64 anh hùng liệt sĩ Gạc Ma nhưng thời tiết tháng 2, tháng 3 sóng gió dữ dội quá không làm được, cứ dịch dần sang tháng 6-1989. Lý do thứ hai nữa là Việt Nam phải thuyết phục mãi bên Nga mới cho mượn tàu tự hành Titan để thi công công trình” – ông Nhưng kể.
Đầu tháng 6-1989, đoàn công tác xuất phát gồm ba tàu (chở cả nhóm thiết kế và thi công của Vietsovpetro, công binh và lính hải quân): tàu cẩu MPK, hai tàu dịch vụ là Sao Mai và Phú Quý. Tàu Sao Mai phụ trách khảo sát sonar, tàu Phú Quý khoan công trình. Tàu cẩu MPK thì có nhiệm vụ đóng cọc xuống nền san hô.
Để đảm bảo bí mật, tàu MPK được lệnh đi Singapour sửa chữa nhưng đi ra tới mỏ Bạch Hổ thì chuyển hướng về bãi cạn Tư Chính.
Để có thể hoàn thành trong thời gian sớm nhất, lực lượng thi công thậm chí còn làm cả ban đêm. “Bình thường những công trình ngoài biển không bao giờ thi công vào ban đêm nhưng nếu chờ thì kéo dài thời gian. Đêm thường sóng gió lặng hơn nên phải tranh thủ làm. Ba tàu tập trung lại, dùng đèn công suất lớn chiếu vào cho anh em thấy đường” – ông Ngô Thường San, lúc đó là phó tổng giám đốc Vietsovpetro, nhớ lại.
Bộ chỉ huy trong bờ được đặt tại trụ sở của Vietsovpetro. Cứ 16h là ngoài biển phải báo cáo tình hình về bờ.

Bãi cạn Tư Chính là một loạt dãy đảo san hô, dài khoảng 50km và chỗ rộng nhất khoảng 10km. Khu vực bãi cạn này phức tạp vì có những rãnh sâu.
Đội thi công chọn khu vực san hô tương đối bằng phẳng, độ sâu tương đối đồng đều để đóng cọc nhà giàn. Mực nước ở đó sâu khoảng 14m.
Thời điểm đó, không ai biết được nền san hô ở bãi cạn Tư Chính như thế nào. San hô mỗi chỗ có độ cứng khác nhau. Có chỗ san hô mới mọc lên, có chỗ biến thành đá. Những chiếc cọc bằng thép CT3 của Nga vốn là ống dẫn dầu (đường kính 320cm, dày 16cm, dài 12m) được đóng xuống nền san hô, dự kiến phải sâu 14-16m để đảm bảo độ vững chắc cho công trình.
“Anh em đóng bằng búa hơi chuyên dụng nhập của Đức nặng 30 tấn, có giá 2,5 triệu USD. Ba cọc đầu xuyên xuống nền san hô được 12m. Còn cọc thứ tư mới xuống được 4,5m thì bị gãy vì trúng nền san hô quá cứng. Chúng tôi quyết tâm hoàn thành công trình này, cố gắng đóng, nhích thêm từng centimet một. Cọc xuống sâu được 7,5m thì không thể xuống được nữa” – ông San nói.
Trước tình hình đó, giải pháp mới được đưa ra là phải mở rộng, gia cố chân đế bằng các khối bêtông (nặng 10 tấn một khối). Cứ một chân đế thì dùng hai khối bêtông để nối giằng lại, tăng độ vững chắc. Ông Đặng Hữu Quý – chánh kỹ sư thiết kế của Vietsovpetro lúc đó – cho biết trong quá trình thi công, gian khó, vất vả nhất là khi sóng to gió lớn.
“Ra làm mới được 2-3 ngày thì sóng gió nổi lên – ông Quý kể – Có khi vừa đặt cọc xuống thì sóng nổi lên, lo giữ tàu đứng yên rất khó. Anh em say sóng nôn mật xanh mật vàng vẫn quyết tâm làm, nhưng tàu cẩu không làm việc được nên phải ngừng thi công. Nó không như trong đất liền, muốn nâng một khối lên thì mặt biển phải tĩnh mới thả xuống được. Đóng cọc cũng vậy, khi chúng tôi vừa nâng búa lên thì sóng nổi lên, không thể thả cọc xuống được”.
Khoảnh khắc xuất hiện của nhà giàn DK1/1 36 năm trước
16h ngày 5-7-1989, nhà giàn DK1/1 đã được lắp đặt xong. Nhà giàn đầu tiên chỉ rộng khoảng 25m2. Toàn bộ công trình nặng 250 tấn, cao 45m, đứng sừng sững trước sự hân hoan của các cán bộ, kỹ sư Vietsovpetro và công binh, hải quân. 36 năm trôi qua, ông Quý vẫn nhớ mãi lúc mọi người cùng ôm lấy nhau rồi hướng về nhà giàn hát Quốc ca.
“Khoảnh khắc đó có một không hai trong đời. Xúc động lắm. Thiêng liêng lắm. Hát quốc ca xong, chúng tôi hô vang : Việt Nam, Trường Sa muôn năm ! Việt Nam, Gạc Ma muôn năm!” – ông Quý rưng rưng nhớ lại.

Ông Ngô Thường San cho biết ở thời điểm đó, đây là công trình nhà giàn đầu tiên trên thế giới được xây dựng trên nền san hô. Còn ông Quý chiêm nghiệm : “Gian khổ thì chẳng thể nào kể thấu được. Đầu tiên là việc chống chọi với sóng biển. Rồi trong quá trình thi công, có lần tàu nước ngoài lao đến, rồi máy bay địch bay trên đầu. Rất căng thẳng. Nhưng anh em vượt qua tất cả, làm ngày làm đêm để hoàn thành sớm nhất”.
Nhà làm xong rồi, các chiến sĩ hải quân ở trên tàu MPK của Vietsovpetro phải chuyển đồ lên nhà giàn để ở. Cái thuở gian khó ấy giữa biển khơi mênh mông, giây phút chia tay, mọi người đều khóc. “Chúng tôi quyết định ở lại đêm đó với anh em lính hải quân vì nhìn cảnh 7 anh em ở lại bơ vơ trong đêm thấy thương lắm. Nhà giàn được thi công gấp để khẳng định chủ quyền nên điều kiện sinh hoạt không đầy đủ, chật chội. Biết anh em ở lại rất gian khổ nên chúng tôi mang hết thực phẩm còn lại lên nhà giàn như giò chả, mì tôm, nước…” – ông Quý kể.
Trước đó, ở bãi cạn Phúc Tần, nhà giàn DK1/3 (là nhà giàn được khảo sát ở vị trí thứ ba) đã được khánh thành ngày 10-6-1989. Sau đó là nhà giàn DK1/4 ở bãi cạn Ba Kè (hoàn thành ngày 16-6-1989). Hai công trình này do Bộ Giao thông vận tải thiết kế, thi công. Cùng với nhà giàn DK1A (DK1/1) do Vietsovpetro thiết kế, thi công thì đó là ba nhà giàn đầu tiên ở thềm lục địa Việt Nam.
Thiết kế
Nhiệm vụ thiết kế nhà giàn được ông Ngô Thường San giao cho chánh kỹ sư thiết kế của Vietsovpetro – kỹ sư Đặng Hữu Quý. Ông Quý từng học chuyên ngành thiết kế về giàn khoan, bảo vệ luận án tiến sĩ ở Nga.
Khi đó ông mới về Vietsovpetro hai năm. Sau buổi làm việc đó, ông Quý được giao nhiệm vụ làm chủ nhiệm thiết kế công trình chưa từng có tiền lệ này.
Ông kể: “Binh chủng công binh là chủ đầu tư. Họ đặt hàng chúng tôi thiết kế có chỗ ngủ nghỉ cho bảy chiến sĩ, có chỗ để quân trang quân dụng, liên lạc thông tin, có khu để máy nổ phát điện, bồn chứa xăng, bể chứa nước ngọt, có bến cập tàu…
Kỹ sư Đặng Hữu Quý mất rất nhiều thời gian tìm tài liệu nghiên cứu các công trình giàn khoan của nước ngoài, nhất là những giàn khoan ở những vùng có địa chất phức tạp khác nhau.
Ông tìm cả tài liệu tiếng Anh, tiếng Nga nhưng không kiếm được một tài liệu nào hướng dẫn thiết kế móng cọc trên nền san hô. Ông Quý cho biết khi thiết kế, khó nhất là làm sao công trình đứng vững được trên nền san hô – điều chưa từng có tiền lệ.
“Chúng tôi nghiên cứu phương án thiết kế của bên Bộ Giao thông vận tải. Họ đưa ra phương án dùng ponton, lấy 500-600 tấn ximăng lấp đầy pôngtông để cố định, neo bằng các dây xích thép. Chúng tôi nhận thấy đó không phải là bản thiết kế hay vì công trình như con lật đật trên sóng, không thể ổn định.
Nếu làm trong thời gian ngắn hạn 1-2 năm thì có thể tồn tại được, nhưng lâu dài thì không mà Bộ Quốc phòng đặt vấn đề lâu dài. Chúng tôi nghiên cứu và quyết định: phải đóng cọc thép sâu trong lòng đất, cố định bằng thép, ở trên mới làm nhà” – ông Quý cho hay.
Ngày đó chủ yếu phải vẽ bản thiết kế trên giấy. Sau nhiều lần xóa đi vẽ lại, ông Quý đã phác thảo ra hình hài nhà giàn.
Đó là một công trình gồm ba khối : chân đế gắn xuống nền san hô bằng cọc, khối trung gian là nơi cập tàu, tiếp tế xăng dầu và block nhà ở. Toàn bộ công trình nặng 250 tấn, cao 45m ở khu vực nước sâu 16-18m. Phần block nhà ở có hình lục lăng, mỗi cạnh dài 5m như 6 cánh hoa.
“Ngay khi vẽ tôi đã hình dung đến công trình này như một bông sen nở rộ giữa trùng khơi, đánh dấu cột mốc chủ quyền mãi mãi cho con cháu mai sau. Khi hoàn thành xong bản thiết kế nhà giàn, tôi đã khóc. Tôi thiết kế block nhà hình lục lăng như sáu cánh hoa để tưởng niệm 64 anh hùng liệt sĩ đã hi sinh. Một phần cũng do hướng sóng biển không thể làm block nhà giàn hình vuông nên tôi chọn hình lục lăng và muốn nó là một bông hoa nở mãi ở Biển Đông Tổ quốc” – ông Quý cho biết.
Nhà giàn thế hệ đầu tiên không có lan can và block nhà ở được làm thành một khối, sau này mới chia thành các modules. Nhưng sắt, thép, ống để làm cọc, làm nhà thì lấy đâu ?
Ông Quý cho hay: “Thời điểm đó chúng ta đang bị cấm vận mà những vật tư này chỉ có thể mua của các nước tư bản. Vật tư để làm giàn khoan lúc đó là Nga cấp cho Việt Nam nên rất quý hiếm. Không có vật tư này thì không thể xây dựng công trình chịu được bão cấp 13, 14”. Không có đôla mua vật tư, Vietsovpetro phải tự xoay xở. Nhưng Vietsovpetro là xí nghiệp liên doanh, lấy đâu ra sắt thép ? “Tôi bàn với ông Vovk là tổng giám đốc Vietsovpetro. May mắn là ông ấy ủng hộ Việt Nam. Chúng tôi họp với Viện nghiên cứu thiết kế chuyên làm giàn khoan ngoài biển của Vietsovpetro. Trong quyết định thì nói là lấy vật tư thừa, tồn dư khi làm giàn khoan để làm công trình này nhưng khi làm, chúng tôi dùng một phần những vật tư mới để làm giàn khoan” – ông Ngô Thường San cho hay. Đó là những ống dẫn dầu bằng thép cứng C5 của Nga, đường kính 320cm, dày 11cm, dài 12m.
Đại tá, PGS.TS Phạm Ngọc Nam (nguyên viện phó Viện Kỹ thuật công binh), một trong những người đã tham gia thiết kế nhà giàn DK1 những năm đầu, cho biết : “Thời điểm đó, cơ sở dữ liệu về sóng, gió, dòng chảy khu vực Nam Biển Đông rất nghèo nàn, không đủ để xử lý. Từ năm 1990-1998 có 592 sáng kiến cải tiến và 131 sự cố. Chúng tôi phải vừa làm vừa học, vừa khảo sát thăm dò và bổ sung hoàn thiện dần, rút kinh nghiệm thường xuyên”.